0 - 120,000 đ        

Khái niệm, định nghĩa Computer (Máy vi tính) là gì?

máy tính Thiên Long

Máy tính , cũng gọi là  máy vi tính  hay  máy điện toán , là những thiết bị hay hệ thống dùng làm tính toán hay khống chế các hoạt động mà cũng có thể biểu diễn dưới dạng số hay quy luật lôgic.
https://congtythienlong.amebaownd.com/posts/19618338​

Máy tính được lắp ghép bởi các thành phần cũng đều có thể thi hành các chức năng đơn giản đã định nghĩa trước. Quá trình tác động tương hỗ phức tạp của các phần tử này tạo cho máy tính một khả năng giải quyết thông tin. Nếu được thiết lập chuẩn xác (thông thường bởi các chương trình máy tính) máy tính có thể mô phỏng lại một số góc cạnh của 1 vấn đề hay của một hệ thống. Trong trường hợp này, khi được cung cấp một bộ dữ liệu thích hợp nó có thể tự động giải quyết vấn đề hay dự đoán trước sự thay đổi của hệ thống.

Khoa học nghiên cứu về lý thuyết, thiết kế và phần mềm của máy tính được gọi là khoa học máy tính, hay khoa học điện toán.

Từ “máy tính” ( computers ), đầu tiên, được dùng cho các người tính toán số học, có hoặc không có sự trợ giúp của máy móc, nhưng hiện nay nó tận gốc có nghĩa là một loại máy móc. Đầu tiên máy tính chỉ giải các bài toán số học, nhưng máy tính tối tân xong xuôi được nhiều hơn thế. Máy tính cũng có thể mua ở Anh trước mắt là máy Ferranti Mark 1 Starsản xuất năm 1951 theo đề cương “bé”.

Đến những năm 1990, khái niệm máy tính đã thực thụ tách rời khỏi định nghĩa điện toán và trở thành một ngành khoa học riêng biệt với nhiều lĩnh vực đa dạng và khái niệm hơn hẳn ngành điện toán thường thì và đã được gọi là công nghệ thông tin. Tuy vậy đến ngày nay, một số người vẫn còn nhầm lẫn giữa hai khái niệm  điện toán  và công nghệ thông tin.

Các nguyên tắc cơ bản Máy tính cũng có thể có thể làm việc thông qua sự chuyển động của các cơ quan cơ khí, điện tử ( electron ), photon, hạt lượng tử hay các hiện tượng vật lý khác đã biết. Mặc dù máy tính được thành lập từ nhiều công nghệ khác nhau song gần như tất cả các máy tính hiện nay đều là máy tính điện tử.

Máy tính cũng có thể trực tiếp mô hình hóa các vấn đề cần phải được giải quyết, trong khả năng của nó các vấn đề càng phải được giải quyết sẽ có giả lập gần tương tự nhất với các hiện tượng vật lý đang khai thác. Ví dụ, dòng chuyển động của các điện tử có thể được dùng làm mô hình hóa sự chuyển động của nước trong đập. Những cái máy tính tương tự( analog computer ) giống như thế đã rất thông dụng trong thập niên 1960 nhưng hiện giờ còn rất ít. [ cần dẫn nguồn ]

Trong phần lớn các máy tính ngày nay, trước hết, mọi vấn đề sẽ được chuyển thành các yếu tố toán học bằng cách diễn tả mọi thông tin liên quan thành các số theo hệ nhị phân(hệ thống đếm dựa theo một số số 0 và 1 hay còn gọi là hệ đếm cơ số 2). Sau đó, mọi tính toán trên các thông tin này được tính toán bằng đại số Boole ( Boolean algebra ).

Các mạch điện tử được dùng để làm mô tả các phép tính Bool. Vì phần lớn các phép tính toán học có thể chuyển thành các phép tính Bool nên máy tính điện tử đủ nhanh để giải quyết phần lớn các vấn đề toán học (và phần lớn tin tức của vấn đề cần giải quyết đã được chuyển thành các vấn đề toán học). Ý tưởng cơ bản này, được nhận biết và nghiên cứu bởi Claude E. Shannon – người đã khiến cho máy tính kỹ thuật số ( digital computer ) tối tân trở thành hiện thực.

Máy tính không thể xử lý mọi thứ mọi vấn đề của toán học. Alan Turing đã sáng tạo ra khoa học lý thuyết máy tính trong đó đề cập tới những vấn đề mà máy tính có thể hay chẳng thể giải quyết.

Khi máy tính xong xuôi tính toán một vấn đề, kết quả của nó được hiển thị cho người sử dụng thấy thông qua thiết bị xuất như: bóng đèn, màn hình, máy in…

Những người mới sử dụng máy tính, đặc biệt là trẻ em, thường cảm nhận biết khó hiểu về ý tưởng cơ bản là máy tính chỉ là một cái máy, nó chẳng thể “suy nghĩ” hay “hiểu” những gì nó hiển thị. Máy tính chỉ dễ dàng thực hiện các kiếm tìm cơ khí trên các bảng màu và đường thẳng đã lập trình trước, rồi sau đó thông qua các thiết bị đầu ra (màn hình, máy in,…) chuyển đổi chúng thành những ký hiệu mà con người có thể cảm thu được thông qua các giác quan (hình ảnh trên màn hình, chữ trên văn bản được in ra). Chỉ có bộ não của nhân loại mỡi nhận thức được các ký hiệu này hình thành các chữ hay số và gắn ý nghĩa cho chúng. Trong quan điểm của máy tính thì tất cả mà nó “nhận thấy” (kể cả khi máy tính được cho là có khả năng tự nhận biết) chỉ là các hạt electron tương đương với các số 0 và 1. Xem thêm trí óc nhân tạo ( artificial intelligence ) và robot.

Phát triển

Các thiết bị tính toán tăng 2 lần năng lực (được khái niệm là số phép tính thi hành trong 1 giây cho mỗi 1.000 USD chi phí) sau mỗi 18 đến 24 tháng kể từ năm 1900. Gordon E. Moore, người đồng sáng lập ra Intel, lần đầu tiên đã mô tả tính chất này của sự đi lên vào năm 1965 (Xem định luật Moore). Cùng với việc tăng khả năng tính toán trên một đơn vị chi phí thì vận tốc của sự thu nhỏ kích thước cũng tương tự. Những cái máy tính điện tử trước mắt như ENIAC (ra đời năm 1946) là một thiết bị khổng lồ nặng hàng tấn, tiêu thụ nhiều điện năng, chiếm một diện tích lớn, thực hành được ít phép tính và đòi hỏi nhiều người điều khiển để tạo ra thể hoạt động được. Những cỗ máy này đắt đến mức chỉ có những chính phủ hay các viện nghiên cứu lớn mới có đủ điều kiện để duy trì hoạt động của chúng. Năm 1973, Trương Trọng Thi chế tác ra Micral mà nhiều người coi là máy tính cá nhân đầu tiên trên thế giới. Một bản mẫu của nó hiện được trưng bày trong Viện bảo tồn máy tính Boston (Mỹ). Chiếc máy này chào đời hơn 1 năm trước máyAltair của công ty Mỹ MITS Electronics, công ty này cũng cho mình là cha đẻ của PC.

Phân loại máy tính

Những phần bên dưới đây mô tả các xu hướng khác nhau trong sự phân loại các máy tính.

Theo mục đích sử dụng

  • Siêu máy tính
  • Siêu máy tính cỡ nhỏ
  • Mainframe
  • Máy chủ doanh nghiệp
  • Máy tính mini
  • Máy trạm ( workstation )
  • Máy tính cá nhân (PC)
    • Máy tính để bàn ( Desktop )
    • Máy tính xách tay ( Laptop )
    • Máy tính bảng con
    • Thiết bị bổ trợ kỹ thuật số cá nhân (PDA)
    • Máy tính tháo lắp

Điểm yếu của khuynh hướng phân loại đây là thuộc tính mơ hồ của nó. Cách phân loại này thường được sử dụng khi cần phân loại tại 1 thời điểm nào đó trong công đoạn phát triển của ngành công nghiệp máy tính. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp máy tính đã khiến cho định nghĩa trên nhanh chóng trở nên lạc hậu. Rất nhiều loại máy tính hiện nay không được còn sử dụng nữa, như máy phân tích vi phân ( differential analyzer ), không được dẫn vào danh sách này. Những sơ đồ phân loại khác cần được đặt ra để khái niệm thuật ngữ máy tính một cách ít (hoặc không) mơ hồ hơn.

Theo mức cải tiến công nghệ

số chân của con chíp Pentinum II này đã biết thành quá nhiều và do đó hãng Intel phải có 1 công nghệ đặc biệt để nối nó ra một bo cắm (hãy chú trọng các răng vàng ( golden teeth ) mỗi răng là một chỗ chạm với hệ thống BUS được dát bằng vàng thay cho chân cắm

Một cách phân loại máy tính ít mơ hồ hơn là theo mức độ hoàn thiện của công nghệ. Những cái máy tính có mặt sớm nhất thuần túy là máy cơ khí. Trong thập niên 1930, các phần tử relay cơ-điện đã được giới thiệu vào máy tính từ ngành công nghiệp liên lạc viễn thông. Trong thập niên 1940, những chiếc máy tính thuần túy điện tử đã được chế tác từ các bóng điện tử. Trong hai thập niên 1950 và thập niên 1960, bóng điện tử dần dà được thay thế bởi bóng bán dẫn, và từ cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970 là bởi mạch tích hợp bán dẫn (chíp bán dẫn, hay IC) cho đến hiện nay.

Một hướng nghiên cứu phát triển mới đây là máy tính quang ( optical computer ) trong đấy máy tính hoạt động theo nguyên tắc của ánh sáng hơn là theo nguyên tắc của các loại điện; đồng thời, khả năng sử dụng DNA trong công nghệ máy tính cũng đang được thử nghiệm. Một nhánh khác của việc nghiên cứu cũng đều có thể dẫn công nghiệp máy tính tới những khả năng mới như tính toán lượng tử, tuy rằng nó vẫn còn ở giai đoạn đầu của việc nghiên cứu.

Theo đặc trưng thiết kế

Các máy tính tối tân đã liên kết các đặc thù thiết kế chính được phát triển bởi nhiều người đóng góp trong nhiều năm. Các đặc thù này phần lớn không phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện của công nghệ. Các máy tính tối tân thu được khả năng tổng thể của chúng theo cách mà các đặc thù này tác động qua lại với nhau. Một số đặc trưng quan trọng được liệt kê dưới đây:

Kỹ thuật số và kỹ thuật tựa như

Một quyết định nền tảng trong việc thiết kế máy tính là hoặc sử dụng kỹ thuật số ( digital ) hoặc sử dụng kỹ thuật tựa như ( analog ). Các máy tính kỹ thuật số ( digital computer ) tính toán trên các giá trị số rời rạc ( discreet value ) hoặc giá trị biểu trưng ( symbolic value ), khi đang đấy máy tính tương tự ( analog computer ) tính toán trên các tín hiệu dữ liệu liên tiếp ( continuous data signal ). Bắt đầu từ thập niên 1940, máy tính kỹ thuật số đã bị thông dụng hơn mặc dầu máy tính tựa như vẫn được dùng cho một số mục đích đặc biệt như trong kỹ thuật robot và việc kiểm soát các lò xyclôtrôn. Các thiết kế khác dùng tính toán xung lượng và tính toán lượng tử cũng hiện diện nhưng chúng hoặc được sử dụng cho những mục tiêu đặc biệt hoặc vẫn đang trong vòng thử nghiệm.

Nhị phân và Thập phân

Một phát triển quan trọng trong thiết kế tính toán kỹ thuật số là việc sử dụng hệ nhị phân như là hệ thống số đếm nội tại. Điều này đã huỷ bỏ những đòi hỏi cần có trong các cơ cấu kỹ thuật phức tạp của các máy tính sử dụng hệ số đếm khác, chẳng hạn như hệ thập phân. Việc áp dụng hệ nhị phân đã làm cho chuyện thiết kế trở lên dễ dàng hơn để thực hành các phép tính số học và các phép tính lôgic.

Khả năng lập trình

Khả năng lập trình của máy tính ( programmability ), nghĩa là cung cấp cho nó một tập hợp các chỉ thị để thi hành mà không có sự điều khiển vật lý đối với nó, là một đặc thù thiết kế nền tảng của phần lớn các máy tính. Đặc trưng này là một sự mở rộng đáng kể khi các máy tính đã được phát triển đến mức nó có thể khống chế động luồng thực hành của chương trình. Điều này cho phép máy tính kiểm soát được thứ tự trong sự thực thi các chỉ lệnh trong chương trình dựa trên các dữ liệu đã được tính ra.

Điểm nổi bật chính trong thiết kế này đó là nó đã được đơn giản hóa 1 cách đáng kể với việc áp dụng các phép tính số bắt chước hệ đếm nhị phân để có thể mô tả đồng loạt các phép tính lôgic.

Lưu trữ

Trong công đoạn tính toán, máy tính thường thì cần phải lưu giữ các giá trị trung gian để cũng có thể có thể sử dụng trong số tính toán sau đó. Khả năng thi hành của máy tính phần lớn phụ thuộc vào tốc độ đọc các giá trị từ bộ nhớ và tốc độ ghi vào bộ nhớ, cũng như dung lượng bộ nhớ. Ban đầu bộ nhớ chỉ được dùng cho các giá trị trung gian, nhưng từ thập niên 1940 thì chính bản thân chương trình cũng cũng đều có thể được lưu giữ theo phương pháp này. Điểm nổi trội này đã dẫn đến việc ra đời của những cái máy tính có sẵn chương trình đầu tiên của thế hệ máy tính ngày nay.

Theo năng lực sử dụng

Có lẽ cách tốt nhất để phân loại các thiết bị máy tính là theo năng lực nội tại của nó, hơn là theo việc sử dụng, sự hoàn thiện công nghệ hay các đặc thù thiết kế. Máy tính có thể chia làm ba dạng chính dựa theo năng lực sử dụng:

  • Các thiết bị có 1 mục đích  chỉ cũng có thể thi hành duy nhất một chức năng (ví dụ cỗ máy Antikythera năm 87 trước công lịch, và máy dự đoán thủy triều của Lord Kelvin năm1876)
  • Các thiết bị có mục tiêu đặc biệt  có thể thi hành một số chức năng hữu hạn (ví dụ động cơ vi phân số 1. –  Difference Engine No 1  – của Charles Babbage năm 1832 vàmáy phân tích vi phân của Vannevar Bush năm 1932)
  • Các thiết bị có mục tiêu không nhất định  là các dạng máy tính sử dụng ngày nay.
Các máy tính có mục đích không nhất định

Các máy tính có mục tiêu không nhất định còn được xem là các máy loại Turing hoàn chỉnh và điều đó được dùng như khả năng ngưỡng để khái niệm các máy tính hiện nay, tuy nhiên, khái niệm này còn có vài vấn đề. Một số thiết bị tính toán với thiết kế đơn giản đã được minh chứng là có độ Turing hoàn tất. Cho đến nay, Z3, phát triển bởi Konrad Zusenăm 1941, là chiếc máy tính hoạt động trước mắt đã được chứng minh đạt được xem chất này, (chứng minh được hoàn thành vào năm 1998). Trong khi Z3 và cũng có thể một số thiết bị khác có tính Turing hoàn tất trên lý thuyết, trên thực tiễn chúng không cần là những máy tính có mục tiêu không nhất định. Chúng thuộc sở hữu những cái được gọi 1 cách vui nhộn là Turing Tar-Pit – “chỗ ở đó mọi điều đều cũng đều có thể nhưng chẳng có gì là thực tế” (Xem Jargon File). Các máy tính hiện đại không những  có mục đích không nhất định trên lý thuyết  mà còn  có mục đích không nhất định trên thực tiễn . Các máy tính hiện đại như loại kỹ thuật số, loại điện tử hay loại có mục tiêu không nhất định được phát triển bởi nhiều người đóng góp trong một thời gian dài từ giữa thập niên 1930 tới cuối thập niên 1940. Trong thời kì này biết bao cỗ máy thí nghiệm đã được phát triển có thể gọi là có độ Turing hoàn tất (như ABC, ENIAC, Harvard Mk I, Colossus v.v.) (Xem thêm Lịch sử phần cứng máy tính). Tất cả những cỗ máy này trong thời đại của chúng đều được nghĩ rằng cái máy tính đầu tiên, nhưng mọi thứ đều có những giới hạn nhất định trong mục đích sử dụng và thiết kế của chúng đã sớm bị thải loại.

Các máy tính có sẵn chương trình

Trong cuối thập niên 1940 thiết kế trước mắt cho máy tính có sẵn chương trình ( stored-program computer ) đã được phát triển và biên khảo (Xem thêm Bản thảo đầu tiên) tạitrường công nghệ điện Moore của Đại học Pennsylvania. Phương pháp giải quyết, miêu tả trong tài liệu, được biết đến như là kiến trúc Von Neumann, có tên của nhà toán học Jon von Neumann mặc dầu các thành viên của trường công nghệ điện Moore mới đích thực sáng chế ra thiết kế này. Kiến trúc Von Neumann đã giải quyết vấn đề thuộc về thiết kế của máy ENIAC và sửa đổi bằng cách lưu trữ chương trình của máy trong bộ nhớ của nó. Von Neumann cung cấp thiết kế này cho các nhà nghiên cứu khác ngay sau khi ENIAC được ban bố vào năm 1946. Nhiều kế hoạch đã được phát triển để hoàn thiện thiết kế này tại trường Moore trong cái máy có tên gọi là EDVAC. EDVAC đang không hoạt động được cho đến tới năm 1953 vì những khó khăn kỹ thuật trong việc hoàn thiện độ tin cậy của cục nhớ. Từ bản sao của thiết kế này, các viện nghiên cứu khác đã giải quyết được vấn đề đó trước trường Moore và hoàn thiện các máy tính có sẵn chương trình của họ. Theo thứ tự của việc hoạt động thành đạt thì 5 chiếc máy tính có sẵn chương trình trước mắt dựa trên cơ sở của kiến trúc Von Neumann là:

Thiết kế “chương trình có sẵn”, được định nghĩa bởi kiến trúc Von Neumann, cuối cùng đã cho phép máy tính khai thác tiềm năng “mục đích không nhất định” của chúng. Bằng cách lưu trữ chương trình trong bộ nhớ, chúng cũng có thể mau chóng “nhảy” từ chỉ thị này tới chỉ thị khác dựa trên kết quả của một điều kiện như đã được định nghĩa sẵn trong chương trình. Các điều kiện này thông thường lượng giá các dữ liệu đã được tính toán bởi chương trình và cho phép chương trình trở thành động hơn. Thiết kế này cũng bổ trợ vào khả năng tự động viết lại chương trình ngay khi đang nó đang thực thi – một đặc trưng cực mạnh nhưng cần sử dụng một cách cẩn thận. Các đặc thù đây là nền tảng cho các máy tính hiện đại.

Nói một cách chính xác, phần lớn các máy tính hiện đại là thiết bị tính toán theo phép nhị phân, bằng điện tử, có sẵn chương trình và có mục đích không nhất định.

Các máy tính có mục đích đặc biệt

Các máy tính có mục tiêu đặc biệt ( special-purpose computer ) đã được phổ biến trong thập niên 1930 và đầu thập niên 1940 nhưng tránh bị thay thế tận gốc bởi các máy tính có mục đích không nhất định. Sự giảm xuống về kích thước và giá thành cũng giống sự tăng năng lực của chúng đã khiến việc sử dụng máy tính có mục đích đặc biệt trong các ứng dụng đặc biệt trở thành một hiệu quả tốt về mặt chi phí. Rất nhiều các thiết bị dùng ngay tại nhà và trong công nghiệp như điện thoại di động, máy thâu video, hệ thống đánh lửa tự động v.v có chứa loại máy tính có mục tiêu đặc biệt này. Trong một số tình huống các máy tính đây là loại Turing hoàn chỉnh (như máy chơi trò chơi điện tử, PDA) nhưng rất nhiều trong những chúng được lập trình một lần tại gia máy sản xuất và rất hiếm khi phải lập trình lại. Chương trình mà các thiết bị này thực thi thường thì được lưu giữ trong bộ nhớ chỉ đọc (ROM) mà khi càng phải có có thể thay thế để thay đổi hoạt động của máy. Các máy tính được nhúng bên trong các thiết bị khác thông thường được xem là vi điều khiển( microcontroller ) hay máy tính nhúng ( embedded computer ).
sửa máy tính tại nhà
sửa máy tính tại nhà quận 1
sửa máy tính tại nhà quận 2
sửa máy tính tại nhà quận 3
sửa máy tính tại nhà quận 4
sửa máy tính tại nhà quận 5
sửa máy tính tại nhà quận 6
sửa máy tính tại nhà quận 7
sửa máy tính tại nhà quận 8
sửa máy tính tại nhà quận 9
sửa máy tính tại nhà quận 10
sửa máy tính tại nhà quận 11
sửa máy tính tại nhà quận 12
sửa máy tính tại nhà quận gò vấp
sửa máy tính tại nhà quận tân bình
sửa máy tính tại nhà quận phú nhuận
sửa máy tính tại nhà quận bình thạnh
sửa máy tính tại nhà quận bình tân
sửa máy tính tại nhà quận tân phú
sửa máy tính tại nhà quận thủ đức

TIN TỨC KHÁC

Vui lòng đợi ...

Đặt mua sản phẩm

Xem nhanh sản phẩm